Nấm bào ngư là gì? Các công bố khoa học về Nấm bào ngư
Nấm bào ngư là một loại nấm quý hiếm và đắt đỏ, được coi là một trong những loại nấm hảo hạng và phổ biến trong ẩm thực Trung Quốc. Tên gọi "bào ngư" được đặt t...
Nấm bào ngư là một loại nấm quý hiếm và đắt đỏ, được coi là một trong những loại nấm hảo hạng và phổ biến trong ẩm thực Trung Quốc. Tên gọi "bào ngư" được đặt theo cách miêu tả hình dạng của nấm, với dạng trông giống như tảng thủy tinh hay sừng cá voi. Nấm bào ngư có vị thơm đặc trưng, thịt dai, mềm, và thường được sử dụng trong các món ăn truyền thống, như xào, canh, nấu cháo hoặc hấp. Ngoài tác dụng dinh dưỡng và hương vị tuyệt vời của nấm bào ngư, còn có tin rằng nó có khả năng tăng cường sức đề kháng và có lợi cho sức khỏe.
Nấm bào ngư, còn được gọi là nấm móng cái hoặc nấm cái sừng, thuộc họ nấm Agaricaceae. Đây là loại nấm rễ kết, sống bám trên các bàng cây và tái sinh từ các hạt mầm. Nấm bào ngư thường được tìm thấy ở các khu rừng ẩm ướt và núi cao ở Trung Quốc, Nhật Bản và Đông Nam Á.
Nấm bào ngư có hình dạng đặc biệt, với một thân rễ chắc chắn và phần đỉnh bông lớn, nổi bật. Khi trưởng thành, nấm có màu trắng hoặc hơi vàng nhạt. Với cấu trúc tế bào phân hoạch riêng biệt, nấm bào ngư có thể hấp thụ nhiều nước và dầu, tạo ra hình dạng thụ đầu và môi trường thụ tạo tuyệt vời.
Trong ẩm thực Trung Quốc, nấm bào ngư được coi là một loại thực phẩm cao cấp và thường xuất hiện trong các món ăn đặc biệt. Nấm bào ngư có vị thơm ngon, nhẹ nhàng và hương vị độc đáo, tạo ra sự phong phú cho bất kỳ món ăn nào mà nó xuất hiện. Thường được xào, nấu cháo, hầm hoặc hấp để giữ nguyên vị tươi ngon và đảm bảo giữ được độ giòn và mềm mịn của thịt nấm.
Ngoài vị ngon và mùi thơm, nấm bào ngư còn được cho là có nhiều lợi ích sức khỏe. Nó chứa nhiều chất chống oxy hóa và chất chống vi khuẩn, có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch, làm chậm quá trình lão hóa và bảo vệ cơ thể khỏi vi khuẩn và vi rút gây bệnh. Nấm bào ngư cũng chứa chất chống ánh sáng mặt trời tự nhiên và các chất chống ung thư, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và giúp cải thiện chức năng gan và thận.
Tuy nhiên, do giá trị cao và sự hiếm có, nấm bào ngư thường được coi là một món ăn xa xỉ và đắt đỏ.
Nấm bào ngư (tên khoa học là Dictyophora indusiata) còn được gọi là "nấm hoàng vũ" hay "nấm móng cái", là một loại nấm độc đáo và quý hiếm, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Loài nấm này thuộc họ Agaricaceae.
Nấm bào ngư có hình dạng đặc trưng, với một thân rễ chắc chắn và thân trên giống như một "cái sừng của những chú móng cái". Thân rễ có chiều cao từ 10-25 cm, có màu trắng hoặc hơi vàng, thường có vân nâu gần đỉnh. Phần trên của nấm giống một tấm khăn lụa dài và mảnh như bộ váy, được gọi là "váy bào ngư". Váy bào ngư có màu trắng trong những đôi nấm trẻ, sau đó chuyển sang màu nâu với tuổi tác.
Nấm bào ngư có hương vị độc đáo và mùi thơm đặc trưng. Thịt của nấm có cấu trúc mềm mịn và hấp thụ ngấm nước tốt. Nấm bào ngư thường được sử dụng trong các món ăn truyền thống và hiện đại, bao gồm xào, luộc, rang, nấu súp, nấu cháo, hoặc hấp để tận dụng hương vị và chất dinh dưỡng của nấm.
Nấm bào ngư cung cấp nhiều chất dinh dưỡng, bao gồm protein, chất xơ, vitamin B, vitamin C, khoáng chất và chất chống oxy hóa. Nó cũng chứa axit amin chất lượng cao, như lysine, methionine, phenylalanine và threonine. Nấm bào ngư được cho là có nhiều tác dụng lợi cho sức khỏe, bao gồm hỗ trợ tiêu hóa, cải thiện chức năng gan, giảm cholesterol, cân bằng đường huyết, tăng cường hệ miễn dịch và chống vi khuẩn.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nấm bào ngư thoải mái tiếp xúc với không khí, vi khuẩn và các tác nhân môi trường khác, do đó có thể gây kích ứng cho một số người. Ngoài ra, việc sử dụng nấm bào ngư cần tuân thủ đúng các quy tắc chế biến và nấu nướng để đảm bảo an toàn thực phẩm.
Vì tính quý hiếm và độc đáo, nấm bào ngư thường có giá trị rất cao và phổ biến trong các món ăn đặc biệt, nhất là trong ẩm thực Trung Quốc và Nhật Bản.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nấm bào ngư":
Các tế bào gốc trung mô (MSCs) có khả năng ứng dụng điều trị tiềm năng có thể cần phải mở rộng quy mô nuôi cấy in vitro trước khi cấy ghép. Các MSCs từ mô mỡ có thể được nuôi cấy mở rộng cho đến khi lão hóa. Tuy nhiên, vẫn còn rất ít thông tin về khả năng phân hóa của các tế bào gốc mỡ (ASCs) trong quá trình nuôi cấy kéo dài và các biến đổi dịch mã liên quan. Chúng tôi đã kiểm tra khả năng phân hóa thành mỡ của các dòng ASCs người trong nuôi cấy ở giai đoạn đầu và khi đến tuổi già, đồng thời xác định liệu sự lão hóa có liên quan đến các thay đổi trong methyl hóa DNA vùng khởi động adipogenic hay không.
Các dòng ASC được nuôi cấy đến tuổi già thể hiện khả năng phân hóa thành mỡ giảm trong điều kiện in vitro, dựa trên sự tổng hợp lipid hạn chế và giảm điều hòa gia tăng phiên mã của
Các ASC ở trạng thái lão hóa thể hiện khả năng phân hóa in vitro giảm và khả năng kích hoạt phiên mã của các gen adipogenic khi được kích thích phân hóa. Tuy nhiên, các hạn chế này không thể được quy cho các thay đổi cụ thể trong methyl hóa DNA ở các vùng khởi động adipogenic. Cũng dường như tồn tại một mối tương quan giữa các CpG bị hypo-methyl hóa và các vị trí liên kết của yếu tố phiên mã quan trọng.
Bài báo này báo cáo về hội thảo ‘Tư Vấn Di Truyền/Tham Vấn Di Truyền Tại Đông Nam Á’ diễn ra tại Hội Nghị Di Truyền Người Châu Á Thái Bình Dương lần thứ 10 tại Kuala Lumpur, Malaysia, vào tháng 12 năm 2012. Hội thảo đã tập hợp các chuyên gia và học giả về ngôn ngữ/giao tiếp từ Đông Nam Á và Vương quốc Anh. Mục tiêu của hội thảo là giải quyết các thực hành tư vấn/tham vấn di truyền mang tính văn hóa và ngữ cảnh cụ thể tại Đông Nam Á. Để làm rõ bối cảnh của tư vấn/tham vấn di truyền tại Đông Nam Á, chúng tôi trước tiên sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về nghiên cứu hướng giao tiếp nói chung, nhấn mạnh sự quan trọng của tham vấn và tư vấn như một phần trong một continuum giao tiếp với những đặc điểm tương tác riêng biệt. Sau đó, chúng tôi sẽ đưa ra các ví dụ về nghiên cứu tư vấn/tham vấn di truyền tại Hồng Kông. Do các quốc gia khác ở Đông Nam Á chưa tiến hành nghiên cứu thực nghiệm hướng giao tiếp, chúng tôi báo cáo về các thực hành tư vấn/tham vấn di truyền hiện tại ở những quốc gia này nhằm xác định các điểm tương đồng, khác biệt cũng như các trở ngại chính mà có thể được giải quyết thông qua nghiên cứu trong tương lai. Ba vấn đề nổi lên như là ‘vấn đề’ bao gồm: ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa. Chúng tôi gợi ý rằng nghiên cứu hướng giao tiếp có thể cung cấp một điểm khởi đầu cho những suy ngẫm dựa trên chứng cứ về cách thức tích hợp tư duy tư vấn trong tham vấn di truyền. Để kết thúc, chúng tôi thảo luận về nhu cầu tạo ra một nền tảng cho việc đào tạo có mục tiêu cho các tư vấn viên di truyền dựa trên những phát hiện từ nghiên cứu hướng giao tiếp.
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tiềm năng tái khoáng hóa cũng như mức độ bảo vệ khỏi quá trình khử khoáng tái diễn của men răng bởi kem đánh răng chứa hydroxyapatite (Karex) so với kem đánh răng chứa fluoride (Elmex) và kem đánh răng không chứa fluoride lẫn hydroxyapatite (Ajona) như là nhóm đối chứng.
Bảy mươi bảy mẫu men răng được thu thập từ 19 chiếc răng của người. Năm bề mặt phân định được tạo ra trên mỗi chiếc răng (S0—S4). Bốn bề mặt (S1—S4) được tiếp xúc với axit lactic (pH 3) trong 8 giờ (quá trình khử khoáng). S0 không bị xử lý để làm nhóm đối chứng. S1 chỉ được xử lý bằng axit. Sau khi khử khoáng, S2 được tiếp xúc với Karex trong 2 phút, trong đó có 15 giây đánh răng. S3 được xử lý bằng Elmex và S4 bằng Ajona, theo đó. Sau đó, các mẫu được đánh giá bằng kính hiển vi điện tử quét và phần mềm phân tích hình ảnh ImageJ để xác định tỷ lệ khử khoáng. Tiếp theo, S2-S4 lại được tiếp xúc với axit lactic trong 2 giờ, và được phân tích pixel một lần nữa. Dữ liệu được phân tích thống kê bằng ANOVA với kiểm định Scheffé và kiểm định Kurskal-Wallis.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 9