Nấm bào ngư là gì? Các công bố khoa học về Nấm bào ngư

Nấm bào ngư là một loại nấm quý hiếm và đắt đỏ, được coi là một trong những loại nấm hảo hạng và phổ biến trong ẩm thực Trung Quốc. Tên gọi "bào ngư" được đặt t...

Nấm bào ngư là một loại nấm quý hiếm và đắt đỏ, được coi là một trong những loại nấm hảo hạng và phổ biến trong ẩm thực Trung Quốc. Tên gọi "bào ngư" được đặt theo cách miêu tả hình dạng của nấm, với dạng trông giống như tảng thủy tinh hay sừng cá voi. Nấm bào ngư có vị thơm đặc trưng, thịt dai, mềm, và thường được sử dụng trong các món ăn truyền thống, như xào, canh, nấu cháo hoặc hấp. Ngoài tác dụng dinh dưỡng và hương vị tuyệt vời của nấm bào ngư, còn có tin rằng nó có khả năng tăng cường sức đề kháng và có lợi cho sức khỏe.
Nấm bào ngư, còn được gọi là nấm móng cái hoặc nấm cái sừng, thuộc họ nấm Agaricaceae. Đây là loại nấm rễ kết, sống bám trên các bàng cây và tái sinh từ các hạt mầm. Nấm bào ngư thường được tìm thấy ở các khu rừng ẩm ướt và núi cao ở Trung Quốc, Nhật Bản và Đông Nam Á.

Nấm bào ngư có hình dạng đặc biệt, với một thân rễ chắc chắn và phần đỉnh bông lớn, nổi bật. Khi trưởng thành, nấm có màu trắng hoặc hơi vàng nhạt. Với cấu trúc tế bào phân hoạch riêng biệt, nấm bào ngư có thể hấp thụ nhiều nước và dầu, tạo ra hình dạng thụ đầu và môi trường thụ tạo tuyệt vời.

Trong ẩm thực Trung Quốc, nấm bào ngư được coi là một loại thực phẩm cao cấp và thường xuất hiện trong các món ăn đặc biệt. Nấm bào ngư có vị thơm ngon, nhẹ nhàng và hương vị độc đáo, tạo ra sự phong phú cho bất kỳ món ăn nào mà nó xuất hiện. Thường được xào, nấu cháo, hầm hoặc hấp để giữ nguyên vị tươi ngon và đảm bảo giữ được độ giòn và mềm mịn của thịt nấm.

Ngoài vị ngon và mùi thơm, nấm bào ngư còn được cho là có nhiều lợi ích sức khỏe. Nó chứa nhiều chất chống oxy hóa và chất chống vi khuẩn, có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch, làm chậm quá trình lão hóa và bảo vệ cơ thể khỏi vi khuẩn và vi rút gây bệnh. Nấm bào ngư cũng chứa chất chống ánh sáng mặt trời tự nhiên và các chất chống ung thư, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và giúp cải thiện chức năng gan và thận.

Tuy nhiên, do giá trị cao và sự hiếm có, nấm bào ngư thường được coi là một món ăn xa xỉ và đắt đỏ.
Nấm bào ngư (tên khoa học là Dictyophora indusiata) còn được gọi là "nấm hoàng vũ" hay "nấm móng cái", là một loại nấm độc đáo và quý hiếm, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Loài nấm này thuộc họ Agaricaceae.

Nấm bào ngư có hình dạng đặc trưng, với một thân rễ chắc chắn và thân trên giống như một "cái sừng của những chú móng cái". Thân rễ có chiều cao từ 10-25 cm, có màu trắng hoặc hơi vàng, thường có vân nâu gần đỉnh. Phần trên của nấm giống một tấm khăn lụa dài và mảnh như bộ váy, được gọi là "váy bào ngư". Váy bào ngư có màu trắng trong những đôi nấm trẻ, sau đó chuyển sang màu nâu với tuổi tác.

Nấm bào ngư có hương vị độc đáo và mùi thơm đặc trưng. Thịt của nấm có cấu trúc mềm mịn và hấp thụ ngấm nước tốt. Nấm bào ngư thường được sử dụng trong các món ăn truyền thống và hiện đại, bao gồm xào, luộc, rang, nấu súp, nấu cháo, hoặc hấp để tận dụng hương vị và chất dinh dưỡng của nấm.

Nấm bào ngư cung cấp nhiều chất dinh dưỡng, bao gồm protein, chất xơ, vitamin B, vitamin C, khoáng chất và chất chống oxy hóa. Nó cũng chứa axit amin chất lượng cao, như lysine, methionine, phenylalanine và threonine. Nấm bào ngư được cho là có nhiều tác dụng lợi cho sức khỏe, bao gồm hỗ trợ tiêu hóa, cải thiện chức năng gan, giảm cholesterol, cân bằng đường huyết, tăng cường hệ miễn dịch và chống vi khuẩn.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nấm bào ngư thoải mái tiếp xúc với không khí, vi khuẩn và các tác nhân môi trường khác, do đó có thể gây kích ứng cho một số người. Ngoài ra, việc sử dụng nấm bào ngư cần tuân thủ đúng các quy tắc chế biến và nấu nướng để đảm bảo an toàn thực phẩm.

Vì tính quý hiếm và độc đáo, nấm bào ngư thường có giá trị rất cao và phổ biến trong các món ăn đặc biệt, nhất là trong ẩm thực Trung Quốc và Nhật Bản.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nấm bào ngư":

Dược động học và dược lực học của 17-demethoxy 17-[[(2-dimethylamino)ethyl]amino]geldanamycin (17DMAG, NSC 707545) trên chuột C.B-17 SCID mang tế bào ung thư vú người MDA-MB-231 Dịch bởi AI
Cancer Chemotherapy and Pharmacology - Tập 55 - Trang 21-32 - 2004
17-demethoxy 17-[[(2-dimethylamino)ethyl]amino]geldanamycin (17DMAG, NSC 707545) là một dẫn xuất tan trong nước của 17-(allylamino)-17-demethoxygeldanamycin (17AAG), một hợp chất hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng. Các nghiên cứu tiền lâm sàng này: (1) xác định nồng độ 17DMAG trong huyết tương, mô bình thường và khối u sau khi tiêm tĩnh mạch vào chuột; và (2) liên hệ nồng độ 17DMAG trong khối u và mô bình thường với sự thay đổi của protein sốc nhiệt 90 (HSP90) và các protein được chaperone bởi HSP90. Tại những thời điểm nhất định sau khi tiêm tĩnh mạch 75 mg/kg 17DMAG, chuột SCID mang tế bào MDA-MB-231 được giết chết và huyết tương cùng mô được giữ lại. Nồng độ 17DMAG được xác định bằng phương pháp HPLC. Raf-1, protein sốc nhiệt 70 (HSP70) và HSP90 trong mô được xác định bằng phương pháp Western blotting. Nồng độ 17DMAG cao nhất trong huyết tương là 15.4±1.4 μg/ml. Diện tích dưới đường cong nồng độ 17DMAG trong huyết tương theo thời gian là 1072 μg/ml phút, tương ứng với độ thanh thải toàn thân là 70 ml/kg/phút. Nồng độ 17DMAG cao nhất trong gan (118.8±5.7 μg/g), thận (122.9±10.6 μg/g), tim (81.3±8.1 μg/g) và phổi (110.6±25.4 μg/g) đạt được sau 5–10 phút, trong khi nồng độ cao nhất trong lách (70.6±9.6 μg/g) và khối u (9.0±1.0 μg/g) đạt được sau 30–45 phút. Sau 48 giờ, 17DMAG có thể phát hiện được trong khối u nhưng không có trong bất kỳ mô bình thường nào. Raf-1 trong khối u của chuột được điều trị bằng 17DMAG đã chết ở 4, 7, 24 và 48 giờ thấp hơn khoảng 20% so với trong khối u của chuột được điều trị bằng dung môi. HSP90 và HSP70 trong khối u của động vật điều trị bằng 17DMAG thấp hơn đáng kể so với trong khối u của động vật đối chứng ở 4, 7 và 24 giờ. Hepatic Raf-1 giảm hơn 60% ở tất cả các thời điểm sau khi điều trị bằng 17DMAG; tuy nhiên, HSP90 gan không bị ảnh hưởng. HSP70 không thể phát hiện được trong gan của chuột điều trị bằng dung môi hoặc chuột chết ở 2 hoặc 4 giờ sau điều trị 17DMAG, nhưng được phát hiện trong gan ở 7, 24 và 48 giờ. 17DMAG không ảnh hưởng đến Raf-1 thận. Ngược lại, HSP70 và HSP90 thận giảm hơn 50% ở 2 và 4 giờ sau điều trị 17DMAG. HSP70 thận tăng khoảng gấp đôi so với trong thận của chuột đối chứng điều trị bằng dung môi ở 7 và 24 giờ, trong khi nồng độ protein tương đối của HSP90 không khác biệt so với đối chứng. Dược động học của 17DMAG trong chuột mang khối u tương tự như những gì đã được báo cáo trước đó trong chuột không mang khối u. 17DMAG phân bố rộng rãi đến các mô nhưng bị giữ lâu hơn trong khối u so với mô bình thường. Raf-1, HSP90 và HSP70 đã biến đổi ở các mức độ khác nhau trong khối u, gan và thận của động vật điều trị bằng 17DMAG. Những dữ liệu này minh họa tính chất phức tạp của các phản ứng sinh học đối với 17DMAG.
Động lực của methyl hóa DNA ở vùng khởi động adipogenic trong quá trình nuôi cấy dòng tế bào gốc mỡ người đến tuổi già Dịch bởi AI
BMC Cell Biology - - 2007
Tóm tắt Thông tin cơ bản

Các tế bào gốc trung mô (MSCs) có khả năng ứng dụng điều trị tiềm năng có thể cần phải mở rộng quy mô nuôi cấy in vitro trước khi cấy ghép. Các MSCs từ mô mỡ có thể được nuôi cấy mở rộng cho đến khi lão hóa. Tuy nhiên, vẫn còn rất ít thông tin về khả năng phân hóa của các tế bào gốc mỡ (ASCs) trong quá trình nuôi cấy kéo dài và các biến đổi dịch mã liên quan. Chúng tôi đã kiểm tra khả năng phân hóa thành mỡ của các dòng ASCs người trong nuôi cấy ở giai đoạn đầu và khi đến tuổi già, đồng thời xác định liệu sự lão hóa có liên quan đến các thay đổi trong methyl hóa DNA vùng khởi động adipogenic hay không.

Kết quả

Các dòng ASC được nuôi cấy đến tuổi già thể hiện khả năng phân hóa thành mỡ giảm trong điều kiện in vitro, dựa trên sự tổng hợp lipid hạn chế và giảm điều hòa gia tăng phiên mã của FABP4LPL, hai gen adipogenic, trong khi phiên mã của LEPPPARG2 không bị ảnh hưởng. Trong các tế bào lão hóa không biệt hóa, biểu hiện của PPARG2LPL không thay đổi, trong khi mức độ bản sao của LEPFABP4 tăng lên nhưng không ở tất cả các dòng. Phân tích trình tự bisulfite của methyl hóa DNA cho thấy mức độ ổn định tương đối của methyl hóa CpG ở vùng khởi động của LEP, PPARG2, FABP4LPL trong quá trình lão hóa và khi phân hóa. Sự phân mảng trong các hồ sơ methyl hóa được duy trì giữa và trong các dòng ASC, và bất kỳ thay đổi methyl hóa CpG cụ thể nào được phát hiện không nhất thiết phải liên quan đến khả năng phân hóa. Một ngoại lệ cho luận điểm này là CpG số 21 trong vùng khởi động LEP, sự methyl hóa liên quan đến lão hóa của nó có thể cản trở việc điều hòa gia tăng gen khi bị kích thích phân hóa thành mỡ.

Kết luận

Các ASC ở trạng thái lão hóa thể hiện khả năng phân hóa in vitro giảm và khả năng kích hoạt phiên mã của các gen adipogenic khi được kích thích phân hóa. Tuy nhiên, các hạn chế này không thể được quy cho các thay đổi cụ thể trong methyl hóa DNA ở các vùng khởi động adipogenic. Cũng dường như tồn tại một mối tương quan giữa các CpG bị hypo-methyl hóa và các vị trí liên kết của yếu tố phiên mã quan trọng.

Tư Vấn Di Truyền/Tham Vấn Di Truyền Tại Đông Nam Á: Bản Báo Cáo Từ Hội Thảo Tại Hội Nghị Di Truyền Người Châu Á Thái Bình Dương Lần Thứ 10 Dịch bởi AI
Journal of Genetic Counseling - - 2013
Abstract

Bài báo này báo cáo về hội thảo ‘Tư Vấn Di Truyền/Tham Vấn Di Truyền Tại Đông Nam Á’ diễn ra tại Hội Nghị Di Truyền Người Châu Á Thái Bình Dương lần thứ 10 tại Kuala Lumpur, Malaysia, vào tháng 12 năm 2012. Hội thảo đã tập hợp các chuyên gia và học giả về ngôn ngữ/giao tiếp từ Đông Nam Á và Vương quốc Anh. Mục tiêu của hội thảo là giải quyết các thực hành tư vấn/tham vấn di truyền mang tính văn hóa và ngữ cảnh cụ thể tại Đông Nam Á. Để làm rõ bối cảnh của tư vấn/tham vấn di truyền tại Đông Nam Á, chúng tôi trước tiên sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về nghiên cứu hướng giao tiếp nói chung, nhấn mạnh sự quan trọng của tham vấn và tư vấn như một phần trong một continuum giao tiếp với những đặc điểm tương tác riêng biệt. Sau đó, chúng tôi sẽ đưa ra các ví dụ về nghiên cứu tư vấn/tham vấn di truyền tại Hồng Kông. Do các quốc gia khác ở Đông Nam Á chưa tiến hành nghiên cứu thực nghiệm hướng giao tiếp, chúng tôi báo cáo về các thực hành tư vấn/tham vấn di truyền hiện tại ở những quốc gia này nhằm xác định các điểm tương đồng, khác biệt cũng như các trở ngại chính mà có thể được giải quyết thông qua nghiên cứu trong tương lai. Ba vấn đề nổi lên như là ‘vấn đề’ bao gồm: ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa. Chúng tôi gợi ý rằng nghiên cứu hướng giao tiếp có thể cung cấp một điểm khởi đầu cho những suy ngẫm dựa trên chứng cứ về cách thức tích hợp tư duy tư vấn trong tham vấn di truyền. Để kết thúc, chúng tôi thảo luận về nhu cầu tạo ra một nền tảng cho việc đào tạo có mục tiêu cho các tư vấn viên di truyền dựa trên những phát hiện từ nghiên cứu hướng giao tiếp.

Khả năng tái khoáng hóa và sự bảo vệ khỏi quá trình khử khoáng: ảnh hưởng của kem đánh răng chứa hydroxyapatite, kem đánh răng chứa fluoride và kem đánh răng không chứa fluoride lẫn hydroxyapatite đối với men răng con người trong điều kiện in vitro Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2022
Tóm tắt Đặt vấn đề

Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tiềm năng tái khoáng hóa cũng như mức độ bảo vệ khỏi quá trình khử khoáng tái diễn của men răng bởi kem đánh răng chứa hydroxyapatite (Karex) so với kem đánh răng chứa fluoride (Elmex) và kem đánh răng không chứa fluoride lẫn hydroxyapatite (Ajona) như là nhóm đối chứng.

Phương pháp

Bảy mươi bảy mẫu men răng được thu thập từ 19 chiếc răng của người. Năm bề mặt phân định được tạo ra trên mỗi chiếc răng (S0—S4). Bốn bề mặt (S1—S4) được tiếp xúc với axit lactic (pH 3) trong 8 giờ (quá trình khử khoáng). S0 không bị xử lý để làm nhóm đối chứng. S1 chỉ được xử lý bằng axit. Sau khi khử khoáng, S2 được tiếp xúc với Karex trong 2 phút, trong đó có 15 giây đánh răng. S3 được xử lý bằng Elmex và S4 bằng Ajona, theo đó. Sau đó, các mẫu được đánh giá bằng kính hiển vi điện tử quét và phần mềm phân tích hình ảnh ImageJ để xác định tỷ lệ khử khoáng. Tiếp theo, S2-S4 lại được tiếp xúc với axit lactic trong 2 giờ, và được phân tích pixel một lần nữa. Dữ liệu được phân tích thống kê bằng ANOVA với kiểm định Scheffé và kiểm định Kurskal-Wallis.

Đánh giá Đa dạng Thực vật Hiện tại tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Phia Oac - Phia Den, Huyện Nguyễn Bình, Tỉnh Cao Bằng, Việt Nam Dịch bởi AI
Nghiên cứu ban đầu của chúng tôi về đa dạng thực vật tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Phia Oac - Phia Den đã xác định được 1199 loài, thuộc 611 chi, 177 họ và năm ngành. Trong số đó, Magnoliophyta là ngành có nhiều loài nhất với 939 loài (chiếm 78,31% tổng số loài), thuộc 520 chi (85,11%), và 144 họ (81,36%). Chín họ chiếm ưu thế chứa 371 loài (30,94%), thuộc 167 chi (27,33%). Dạng sống chủ yếu của thực vật trong khu vực được khảo sát là Phanerophytes (Ph) với 644 loài (53,71% tổng số loài). Thực vật chủ yếu phân bố trong hệ sinh thái rừng nguyên sinh của Khu Bảo tồn Thiên nhiên Phia Oac - Phia Den (575 loài hay 47,79%). Có 1060 loài thực vật có ích, trong đó thực vật thuốc và cây gỗ chiếm tỷ lệ lớn nhất lần lượt là 40,37% và 19,77%.
#đa dạng thực vật #Khu Bảo tồn Thiên nhiên #Phia Oac #Phia Den #Cao Bằng #Việt Nam
CHẾ BIẾN CHÀ BÔNG NẤM BÀO NGƯ (PLEUROTUS OSTREATUS) BỔ SUNG LÁ CHÚC
Nấm bào ngư hầu như không còn xa lạ với người dân Việt Nam bởi vị ngọt tự nhiên, tuy nhiênthời gian bảo quản ngắn, giá trị sản phẩm thấp nên cần có các nghiên cứu nhằm cải thiện nhược điểm trên vì vậy đề tài “Chế biến chà bông nấm bào ngư (Pleurotus ostreatus) bổ sung lá chúc” được thực hiện. Nghiên cứu khảo sát các yếu tố sau: thời gian chần ảnh hưởng đến màu sắc và mùi sản phẩm; đường và dầu hào bổ sung làm tăng giá trị cảm quan; tỉ lệ lá chúc bổ sung ảnh hưởng đến thời gian bảo quản và chất lượng sản phẩm; khảo sát độ hài lòng của người tiêu dùng đến chất lượng sản phẩm. Kết quả tìm được các thông số tối ưu cho quy trình như sau: thời gian chần 4 phút khử được mùi ngái và màu sắc đẹp; lượng đường và dầu hào bổ sung 2%, 4% sản phẩm có vị vừa miệng và đăc trưng cho chà bông; lá chúc bổ sung 2% tạo mùi hương đặc trưng sản phẩm mà không có vị chát; 90% người sử dụng hài lòng về sản phẩm tuy nhiên còn một số ý kiến: cải thiện màu sắc sản phẩm, quan tâm bao bì sản phẩm hơn.
#Nấm bào ngư #Chà bông #Lá chúc
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ GIS VÀO XÂY DỰNG DỰ BÁO NGƯ TRƯỜNG KHAI THÁC CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG Ở VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Bản đồ dự báo ngư trường khai thác cá ngừ đại dương (cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to) được xây dựng trong những năm qua dựa trên nguồn dữ liệu của nghề câu vàng cá ngừ đại dương thu thập qua các đề tài, dự án từ năm 1996 đến 2010, lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hải sản. Ngư trường khai thác cá ngừ đại dương được dự báo bằng phương pháp phân tích mô hình đơn biến theo thời gian kết hợp với phương pháp chồng xếp bản đồ, sử dụng công nghệ GIS (hệ thống thông tin địa lý). Chỉ số năng suất khai thác trung bình được sử dụng để xác định ngư trường khai thác tiềm năng, các ngư trường khai thác tiềm năng này được giới hạn trong phạm vi không gian 30×30 hải lý (ô lưới 0,5 độ). Tổng hợp kết quả dự báo ngư trường khai thác cá ngừ đại dương qua các năm bằng công nghệ GIS đã mô phỏng được ngư trường khai thác trọng điểm của đối tượng này và đánh giá đồng bộ xu thế biến động ngư trường khai thác theo thời gian, đồng thời kết quả này mang lại hiệu quả nhất định đối với xác định ngư trường khai thác cá ngừ đại dương, tạo cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo về dự báo ngư trường khai thác trên cơ sở ứng dụng công nghệ tiên tiến như ảnh viễn thám, mô hình dự báo khai thác hiện đại ... nhằm nâng cao chất lượng dự báo ngư trường khai thác đối tượng cá ngừ đại dương ngày một có hiệu quả.
BẢO TỒN SỰ ĐA DẠNG VĂN HÓA VÀ ĐA DẠNG NGÔN NGỮ CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc - Tập 12 Số 2 - Trang 80-85 - 2023
Văn hóa (trong đó ngôn ngữ là một thành tố quan trọng) của các dân tộc là di sản chung của nhân loại. Trong quá trình phát triển xã hội, ở nhiều quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa, sự đa dạng ấy không mất đi mà ngày càng được tôn vinh nhờ tính thống nhất trong chiến lược quản lý và phát triển văn hóa quốc gia. Tuy nhiên, trước tác động của quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra sâu rộng trên mọi mặt của đời sống xã hội, việc bảo vệ sự đa dạng của văn hóa và ngôn ngữ đang trở thành một vấn đề cấp bách. Bài viết phân tích sự đa dạng văn hóa, đa dạng ngôn ngữ, thực trạng bảo tồn sự đa dạng văn hóa, đa dạng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp bảo tồn sự đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
#Bảo tồn #Đa dạng văn hóa #Đa dạng ngôn ngữ #Các dân tộc thiểu số #Việt Nam #Hội nhập quốc tế
MỐI LIÊN QUAN GIỮA UNG THƯ VÀ KIẾN THỨC BẢO QUẢN THỰC PHẨM TRONG TỦ LẠNH CỦA NGƯỜI DÂN TẠI MỘT SỐ TỈNH PHÍA BẮC VIỆT NAM
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 3 - 2022
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 151 người nội trợ chính có độ tuổi từ 18 - 60 đại diện cho 151 hộ gia đình tại Hà Nội, Vĩnh Phúc, Yên Bái. Trong đó, 75 hộ gia đình có người mắc ung thư và 76 hộ gia đình không có người mắc ung thư. Nghiên cứu nhằm mô tả kiến thức bảo quản thực phẩm trong tủ lạnh, từ đó phân tích một số yếu tố liên quan về kiến thức bảo quản thực phẩm trong tủ lạnh giữa 2 nhóm hộ gia đình trên. Tại hai nhóm nghiên cứu trên đối tượng có ung thư và không mắc ung thư, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt về kiến thức giữa hai nhóm khá rõ rệt và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Nhóm không mắc ung thư (12,41 điểm) có điểm trung bình kiến thức cao hơn nhóm có người mắc ung thư (9,8 điểm) với p<0,05. Tổng điểm kiến thức của đối tượng có sự khác biệt theo: tuổi, giới, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, điều kiện kinh tế và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p< 0,05).
#Ung thư #kiến thức #bảo quản thực phẩm #tủ lạnh.
Tổng số: 89   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 9